Tuyên truyền kỷ niệm 80 năm Ngày Nam Kỳ khởi nghĩa (23/11/1940-23/11/2020)
I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ, DIỄN BIẾN, KẾT QUẢ CUỘC KHỞI NGHĨA NAM KỲ
1. Bối cảnh lịch sử
Tháng 9/1939, Chiến tranh thế giới lần thứ II bùng
nổ. Tháng 6/1940, Pháp đầu hàng phát xít Đức. Lợi dụng cơ hội này, cuối
tháng 9/1940, phát xít Nhật kéo quân vào Đông Dương, từ đây Nhân dân ta lâm vào
tình thế “một cổ hai tròng”. Tháng 11/1940, bọn quân phiệt Thái Lan theo
lệnh phát xít Nhật tiến đánh Campuchia. Thực dân Pháp bắt lính Nam Bộ ra
trận làm bia đỡ đạn cho chúng. Căm thù thực dân Pháp và được cổ vũ bởi tiếng
súng khởi nghĩa Bắc Sơn, Nhân dân Nam Bộ sục sôi tranh đấu.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Ðảng lần thứ bảy (khóa
I) từ ngày 6 đến ngày 8/11/1939 tại Bà Ðiểm (Hóc Môn, Gia
Ðịnh) nhận định: Nhật sẽ xâm chiếm Đông Dương và Pháp sẽ đầu
hàng Nhật, cách mạng Đông Dương sẽ bùng nổ; do vậy, phải đoàn kết thực hiện
bằng được nhiệm vụ chính cốt là đánh đổ đế quốc, giải phóng dân tộc; chủ trương
thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương, đoàn kết rộng rãi các
tầng lớp, giai cấp, dân tộc và các cá nhân yêu nước.
Tinh thần Nghị quyết đã sớm đi vào đảng viên, quần chúng. Phong
trào cách mạng ở Nam Kỳ ngày càng phát triển mạnh mẽ, liên tiếp diễn
ra nhiều cuộc mít tinh, biểu tình, đấu tranh. Đặc biệt là các cuộc đấu tranh
chống bắt lính diễn ra mạnh mẽ kể từ khi thực dân Pháp bắt thêm lính Việt Nam
đem sang chiến trường biên giới Ai Lao (Lào) - Cao Miên (Campuchia) để chống
Xiêm (Thái Lan). Khí thế chiến đấu diễn ra hầu khắp Nam Kỳ, đặc biệt là ở
Mỹ Tho, Vĩnh Long, Long Xuyên, Chợ Lớn, Gia Định, Tân An, Vũng Tàu, Trà Vinh...
Trên cơ sở đó, tháng 3/1940, Ban Thường vụ Xứ ủy Nam Kỳ do đồng
chí Võ Văn Tần làm Bí thư thảo ra Đề cương chuẩn bị bạo động.
Từ tháng 7 đến tháng 10/1940, Ðảng bộ Nam Kỳ liên tiếp tổ chức nhiều cuộc họp
để bàn chủ trương và gấp rút lãnh đạo Nhân dân chuẩn bị khởi nghĩa vũ
trang, thông qua Đề cương; chủ trương thành lập Ban Chỉ
huy và Ban Quân sự các cấp; xác định hình thức chính quyền, quốc kỳ, khẩu hiệu;
vạch các chính sách đối với Nhân dân…
Ðến giữa tháng 11/1940, trước tinh thần đấu tranh của quần
chúng, đặc biệt là tinh thần phản chiến của binh lính Việt Nam trong quân đội
Pháp, Xứ ủy Nam Kỳ quyết định phát động toàn Nam Kỳ nổi dậy đánh đổ chính quyền
thuộc địa, giành chính quyền về tay Nhân dân. Ngày 21/11/1940, Thường vụ Xứ ủy
ra thông báo cho các cấp bộ Đảng nhất loạt phát động Nhân dân nổi dậy vào lúc
24 giờ ngày 22/11/1940. Thời điểm hành động nhất loạt ở các tỉnh Nam Kỳ là
lúc 0 giờ ngày 22, rạng 23/11/1940, hiệu lệnh là đèn Sài Gòn tắt hoặc có tiếng
súng nổ.
Hội nghị Trung ương Ðảng họp tại Ðình Bảng (Bắc Ninh) từ ngày 6
đến 9/11/1940 nhận định điều kiện khởi nghĩa ở Nam Kỳ và trong cả nước
chưa chín muồi, đề nghị Xứ ủy Nam Kỳ chưa nên phát động khởi nghĩa. Trung ương
phái đồng chí Phan Đăng Lưu trở về truyền đạt quyết định của Trung ương
cho Xứ ủy Nam Kỳ. Nhưng khi đồng chí Phan Ðăng Lưu về tới Sài Gòn thì lệnh khởi
nghĩa đã ban hành tới các địa phương không thể thu hồi; một số cán bộ chủ chốt
của Xứ ủy đã bị địch bắt, Cuộc khởi nghĩa vẫn nổ ra theo kế hoạch.
2. Diễn biến, kết quả Cuộc khởi nghĩa
Chỉ trong một thời gian ngắn kể từ khi Thường vụ Xứ uỷ ra Đề
cương chuẩn bị bạo động (tháng 3/1940), công tác chuẩn bị khởi nghĩa
được triển khai rất khẩn trương; các tổ chức phản đế xuất hiện nhiều nơi, nhất
là ở vùng nông thôn. Mít tinh, biểu tình liên tiếp nổ ra. Nhiều
nơi địch đến đánh phá, Nhân dân nổi trống mõ, uy hiếp địch, bảo vệ cán
bộ. Các đội tự vệ, du kích phát triển ngay trong những xí nghiệp lớn ở Sài
Gòn như Ba Son, nhà máy đèn Chợ Quán, trường Bách Nghệ... Ở nông
thôn, phần lớn các xã đều có từ một tiểu đội đến một trung đội du
kích. Các cơ sở sản xuất vũ khí làm việc suốt ngày đêm. Nhân dân quyên góp
kim khí để đúc đạn; xuất hiện những cơ sở làm bom, lựu đạn xi măng, súng
thô sơ ở Móp Xanh (Tân An), Bà U (Mỹ Tho), chùa Hòa Thượng Đồng (Rạch
Giá)… Phong trào chống chiến tranh, chống bắt lính với khẩu hiệu “không
một đồng xu, không một người lính cho đế quốc chiến tranh” ngày càng lan
rộng. Công tác binh vận được tổ chức ráo riết, phần lớn trong số 15.000
binh lính người Việt trong quân đội Pháp đóng ở Sài Gòn sẵn sàng phối hợp nổi dậy.
Tuy nhiên, vì kế hoạch khởi nghĩa bị địch biết trước nên chúng
lùng sục bắt bớ, giữ binh lính người Việt ở trong trại, tước vũ khí của binh
lính phản chiến. Dù vậy, cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ vẫn diễn ra theo đúng kế hoạch
vào đêm 22 rạng sáng 23/11/1940.
Khởi nghĩa bùng nổ đồng loạt tại hầu hết các tỉnh Nam Kỳ với tinh
thần quyết liệt, mạnh nhất là ở Gia Ðịnh, Chợ Lớn, Mỹ Tho, Vĩnh Long...
Lực lượng vũ trang và quần chúng đã nổi dậy tiến công địch ở các xã, tập kích
nhiều đồn bốt, tiến đánh một số quận lỵ, phá hỏng nhiều cầu, đường... Tại
một số xã, quận, chính quyền địch hoang mang, tan rã, chính quyền cách mạng
được thành lập. Lần đầu tiên cờ đỏ sao vàng xuất hiện ở những nơi đã thành
lập chính quyền cách mạng và trong nhiều cuộc biểu tình. Bọn phản cách mạng bị
xét xử. Ruộng, thóc của địa chủ phản động được chia cho dân cày nghèo.
Ở Hóc Môn, dưới sự chỉ huy của đồng chí Mười Đen - Xứ
ủy viên Xứ ủy Nam Kỳ, quân du kích và hàng nghìn đồng bào kéo đến vây công đồn,
chặn đánh địch tiếp viện ở Cầu Bông, giết chết tên Chánh xứ tỉnh Tây Ninh, thu
được hơn chục súng trường. Do quân của địch kéo đến nhiều, du kích không chiếm
được đồn, tạm rút lên Truông Mít, Tây Ninh.
Tại Chợ Lớn, du kích tập trung ở Đức Hoà, Trung
Quận, Cần Giuộc, mỗi nơi khoảng 400 đến 500 người. Ở Đức Hoà, quân du kích đánh
tan toán lính địch tại Giồng Đa, giết chết tên đầu sỏ phản động. Tại Trung
Quận, du kích cùng Nhân dân diệt tề, trừ gian, lập chính quyền cách mạng ở các
xã dọc hai bên đường xe lửa. Ở Bến Lức, quân du kích dùng mưu dụ lính ra khỏi đồn,
xông vào chiếm đồn lấy súng. Tại Cần Giuộc, du kích do đồng chí Nguyễn Thị Bẩy,
Tỉnh uỷ viên chỉ huy, cùng Nhân dân đánh chiếm trụ sở hội tề, tịch thu sổ sách,
bằng triện, lập chính quyền cách mạng ở các xã Phước Lai, Phước Vĩnh Đông, Tân
Lập, Long Hậu, Long Đức.
Tại Vĩnh Long, quân du kích Vũng Liêm đánh chiếm
quận lỵ, công đồn. Quân địch hoảng sợ bỏ chạy, nghĩa quân lập Ủy ban cách mạng
và giữ được đồn trong ba ngày.
Tại Tân An và Mỹ Tho, các xã
thuộc hữu ngạn sông Vàm Cỏ Đông và hai bên bờ sông Vàm Cỏ Tây, chính quyền đều
về tay Nhân dân. Hàng nghìn du kích dưới sự lãnh đạo của Bí thư Tỉnh uỷ Mỹ
Tho đã tiến đánh nhiều nơi, mở rộng vùng giải phóng. Chỉ tính riêng hai quận
Châu Thành và Cai Lậy, ta đã giải phóng được 54/56 xã. Lo sợ trước phong trào
nổi dậy ở Mỹ Tho, ngày 14/12/1940 địch phải dùng thủy, lục, không quân tiến
công nhưng mãi đến 14/1/1941 chúng mới chiếm lại được các đồn, bốt. Trong tình
thế đó, quân du kích tạm rút vào Đồng Tháp Mười. Mỹ Tho là nơi giữ được chính
quyền lâu nhất.
Ngay từ khi được tin Nam Kỳ khởi nghĩa, Ban Thường vụ Trung ương
Đảng đã ra thông báo khẩn cấp, chỉ thị cho các địa phương “chia lửa” với Nam
Kỳ. Từ việc rải truyền đơn, bãi khóa, bãi thị đến việc phát động du kích, nếu
có điều kiện phá đường, cầu cống ngăn quân thù đàn áp. Nhưng thực dân Pháp
khủng bố khốc liệt, càn quét các vùng khởi nghĩa, tiêu diệt chính
quyền cách mạng, cho máy bay dội bom xuống làng mạc, thôn xóm. Tính từ
ngày 22/11 đến ngày 31/12/1940, thực dân Pháp gây ra hơn 5.000 vụ bắt bớ; hàng
ngàn người bị xử tử, tù đày, tra tấn vô cùng tàn bạo.
Tháng 12/1940, Xứ ủy Nam Kỳ họp ở Bà Quẹo (Gia Định) quyết định
rút lui cuộc khởi nghĩa để tránh tổn thất, đưa lực lượng còn lại xây dựng căn
cứ U Minh và Đồng Tháp Mười.
Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ bị dập tắt. Thực dân Pháp nhân cơ hội này
xử bắn nhiều đồng chí cán bộ kiên trung của Ðảng bị bắt từ trước khởi nghĩa,
như: Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập, Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Văn Tần, Nguyễn Hữu
Tiến, Phan Ðăng Lưu...
II. Ý NGHĨA LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
1. Ý nghĩa lịch sử
Diễn ra trong một thời gian ngắn nhưng khởi nghĩa Nam Kỳ là cuộc
khởi nghĩa vũ trang có phạm vi rộng nhất và mức độ quyết liệt nhất kể từ khi
thực dân Pháp xâm chiếm lục tỉnh Nam Kỳ năm 1867 đến thời điểm đó. Tuy
thất bại nhưng khởi nghĩa Nam Kỳ có ý nghĩa lịch sử sâu sắc đối với sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước của Nhân dân ta:
- Cùng với khởi nghĩa Bắc Sơn, khởi nghĩa Nam Kỳ “là những tiếng
súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu tranh đấu bằng võ lực
của các dân tộc ở một nước Ðông Dương”[1]. Cuộc khởi nghĩa đã thể hiện sức mạnh quật
khởi, lòng tin tưởng và sẵn sàng hy sinh của Nhân dân các tỉnh Nam Bộ trong
cuộc đấu tranh giành tự do, độc lập dưới sự lãnh đạo của Ðảng. Chính vì lẽ đó,
ngày 14/11/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Sắc lệnh 163-SL tặng thưởng Huân
chương Quân công hạng nhất cho Đội quân khởi nghĩa Nam Bộ năm 1940. Đó là sự
khắc ghi của dân tộc đối với công lao và sự hy sinh của quân và dân Nam Kỳ.
- Từ cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, nhiều cán bộ của Đảng được rèn luyện,
thử thách. Sau khởi nghĩa, một đội ngũ cán bộ, đảng viên trung thành với lý
tưởng của Ðảng, gương mẫu chiến đấu hy sinh vì quyền lợi của dân tộc, của Nhân
dân đã trưởng thành và đảm đương những trọng trách mà Đảng ta giao phó về sau.
Từ đây, có hàng vạn quần chúng Nhân dân yêu nước được thử thách trong đấu
tranh, tiếp tục đi theo Ðảng thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc tiến
tới giành thắng lợi Cách mạng Tháng Tám 1945.
- Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ mang tính chất một cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc, tính nhân dân rộng rãi và sâu sắc. Đó là minh chứng sinh động
cho chủ trương đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu của Ðảng với phương
pháp đấu tranh vũ lực là hoàn toàn đúng đắn và sáng tạo. Ðồng thời, khởi nghĩa
Nam Kỳ cũng là cơ sở thực tiễn để Đảng ta hoàn thiện con đường chuẩn bị khởi
nghĩa vũ trang giành chính quyền. Từ kinh nghiệm các cuộc khởi nghĩa ở Bắc Sơn,
Nam Kỳ, binh biến Ðô Lương, Đảng đã có những bước đi cẩn trọng, chu đáo trong
đánh giá, xác định thời cơ, chuẩn bị lực lượng... đi tới giải phóng toàn dân tộc.
- Với cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, từ trong quá trình chuẩn bị và diễn
ra, lần đầu thiết chế “Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” được đề cập trong
truyền đơn rải ở thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn và tiêu ngữ “Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa quốc” được viết trên các băng zôn treo trước trụ sở các ủy ban cách mạng
ở Long Hưng, Vĩnh Kim (Mỹ Tho). Lá cờ đỏ sao vàng năm cánh xuất hiện trong
khởi nghĩa Nam Kỳ đã trở thành biểu tượng của khối đại đoàn kết toàn dân, biểu
tượng của tinh thần và ý chí đấu tranh cách mạng của Nhân dân. Cờ đỏ sao vàng
năm cánh sau đó đã được Ðảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chọn làm biểu tượng của
Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh và đến ngày 9/11/1946 được ghi chính thức
trong Hiến pháp, thông qua tại kỳ họp Quốc hội thứ hai (khóa I).
2. Bài học kinh nghiệm
Khởi nghĩa Nam Kỳ là thực tiễn sinh động về phong trào đấu tranh
cách mạng của nhân dân và để lại những bài học quý báu, đó là:
Một là, bài học về cụ thể hóa đường
lối của Đảng phù hợp với thực tiễn địa phương, phải đặt địa phương trong mối
tương quan với cả nước và có sự phối hợp khởi nghĩa giữa các địa phương trong
cả nước. Một trong những nguyên nhân thất bại của cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ là vì
chưa được đặt trong sức mạnh chung của toàn quốc.
Hai là, bài học về công tác chuẩn bị
các điều kiện cần và đủ cho một cuộc khởi
nghĩa nổ ra có thể giành được thắng lợi, đặc biệt là chuẩn bị về lực lượng
chính trị, xây dựng lực lượng vũ trang và khởi nghĩa vũ trang, chiến tranh du
kích, xây dựng và kiểm tra kế hoạch, phát hiệu lệnh khởi nghĩa.
Ba là, bài học về xây dựng đội quân
chủ lực, xác định rõ các lực lượng phối hợp của cuộc khởi nghĩa và đánh giá
đúng vai trò của các lực lượng. Lực lượng vũ trang của binh lính là quan trọng
nhưng quyết định vẫn là quần chúng công nông.
Bốn là, bài học về việc giữ vững
sự gắn bó máu thịt giữa Đảng và quần chúng; không ngừng xây dựng lực lượng cách
mạng trong quần chúng; khơi dậy và nhân lên sức mạnh vĩ đại từ sự đồng tâm,
hiệp lực của quần chúng.
Năm là, bài học về tính khoa học của
kế hoạch lãnh đạo khi tiến công và thoái thủ; dự trù các phương án thắng - thua
và khả năng giải quyết nếu khởi nghĩa thất bại; kế hoạch rút lui bảo toàn cơ sở
và lực lượng.
III. PHÁT HUY TINH THẦN NAM KỲ KHỞI NGHĨA TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG
QUÊ HƯƠNG, ĐẤT NƯỚC GIAI ĐOAN HIỆN NAY
Kỷ niệm 80 năm Ngày Nam Kỳ khởi nghĩa diễn ra vào thời điểm toàn
Ðảng, toàn quân, toàn dân ta đang thi đua lập thành tích chào mừng Ðại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII của Ðảng; phát huy tinh thần và những bài học kinh
nghiệm của Cuộc khởi nghĩa đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mới, các cấp, các ngành cần nỗ lực phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ
chính trị của đất nước, trọng tâm là:
- Tập trung xây dựng Đảng vững mạnh toàn diện, nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, nhất là không ngừng nâng cao trí tuệ, năng
lực hoạch định đường lối, chủ trương, chiến lược cách mạng khoa học và sáng tạo
của Đảng, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn cách mạng giai đoạn đổi
mới. Nghiên cứu, phân tích, nhận định tình hình thế giới và trong nước, nắm
chắc, tận dụng thời cơ đưa đất nước vượt qua khó khăn, thách thức, thực hiện
thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
- Không ngừng xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân thành nguồn
sức mạnh và động lực to lớn để tranh thủ thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, thực hiện
thắng lợi sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập
quốc tế và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh tổ chức
các phong trào thi đua yêu nước gắn với thực hiện các chương trình, kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và cả nước trong từng thời kỳ nhằm
tích cực phát huy vai trò của quần chúng Nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
- Tăng cường củng cố, xây dựng lực lượng quốc phòng - an ninh vững
chắc, trong đó chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh
chủng, lực lượng; đồng thời, chú trọng công tác bảo vệ bí mật Nhà nước, kịp
thời phát hiện, phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn, vô hiệu hóa các hoạt động phá
hoại, đánh cắp thông tin, bí mật nhà Nước của các thế lực thù địch, phản động,
gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
- Nâng cao năng lực lãnh đạo của các tổ chức đảng; đẩy lùi tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, chạy chức, chạy quyền; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên
trong tổ chức Đảng thực sự tiên phong, gương mẫu, trước hết là người đứng
đầu; làm cho Nhân dân tin yêu và gắn bó máu thịt với Đảng. Đồng thời, đẩy
mạnh phong trào tự soi, tự sửa theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
để nâng cao chuẩn mực đạo đức, ý thức trách nhiệm, tác phong công tác cho cán
bộ, đảng viên.
BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG
[1].Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện
Đảng toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 109.
Nhân
dân Nam Bộ vùng lên đấu tranh trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ
(Tranh
vẽ- Ảnh TLBTLSQG)