Kỷ niệm 91 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930 – 3/2/2021)
I.
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI LÀ BƯỚC NGOẶT TO LỚN TRONG LỊCH SỬ CÁCH MẠNG VIỆT
NAM
1.
Bối cảnh lịch sử ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam
Từ
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tình hình thế giới và trong nước có nhiều chuyển
biến sâu sắc. Trên thế giới, chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh
tranh sang chủ nghĩa đế quốc. Các nước tư bản đế quốc gia tăng các hoạt động
xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Mâu thuẫn giữa các dân tộc
thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt. Bên trong các nước tư bản
thì tăng cường bóc lột nhân dân lao động, phong trào đấu tranh giải phóng dân
tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
Năm
1917, với thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga, chủ nghĩa Mác -Lênin từ lý
luận đã trở thành hiện thực, trở thành nguồn cổ vũ to lớn cho các dân tộc bị áp
bức đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người.
Tháng
3 năm 1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) ra đời đã thúc đẩy sự phát triển
mạnh mẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Trong
nước, năm 1858, thực dân Pháp xâm lược và thi hành chính sách cai trị thực dân
ở Việt Nam, biến nước ta từ một quốc gia phong kiến thành “một xứ thuộc
địa, dân ta là vong quốc nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù
hung ác”. Chính sách thống trị của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam
có nhiều thay đổi.
Thực
dân Pháp cấu kết với giai cấp địa chủ để thực hiện chính sách bóc lột tàn bạo,
cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; ra sức vơ vét tài nguyên, cùng nhiều hình
thức thuế khóa nặng nề và tiến hành chính sách ngu dân. Các giai cấp, tầng lớp khác
trong xã hội Việt Nam đều mang thân phận người dân mất nước và đều bị thực dân
áp bức, bóc lột, chèn ép nên đều căm phẫn thực dân Pháp. Do đó, mâu thuẫn cơ
bản trong xã hội Việt Nam lúc này là mâu thuẫn giữa nhân dân, chủ yếu là nông
dân với giai cấp địa chủ và phong kiến; mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa toàn
thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược.
Trước
sự xâm lược của thực dân Pháp, các cuộc khởi nghĩa và các phong trào đấu tranh
của nhân dân ta diễn ra liên tục và mạnh mẽ như phong trào Cần Vương, khởi
nghĩa Yên Bái, phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản của Phan
Bội Châu, Phan Chu Trinh… nhưng đều bị thất bại. Xã hội Việt Nam rơi vào khủng
hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.
2.
Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu nước và chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
- Giữa
lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, nhiều nhà yêu
nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ thì ngày 5/6/1911 người
thanh niên Nguyễn Tất Thành (tức là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh sau này) ra đi
tìm đường cứu nước theo phương hướng mới.
-
Trải qua quá trình bôn ba đến nhiều nước, Nguyễn Ái Quốc đã nghiên cứu nhiều
cuộc cách mạng, nghiên cứu nhiều lý thuyết cách mạng trên thế giới để tìm đường
cứu nước cho nhân dân ta, dân tộc ta. Đến tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc
bản “Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc
địa” của Lênin đăng trên báo Nhân đạo và cũng chính từ đây đã giải đáp
cho Người con đường đấu tranh giành độc lập tự do thực sự cho dân tộc, cho đồng
bào mình, Người khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng
chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất chính là chủ nghĩa
LêNin”.
-
Tháng 12/1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp với
tư cách đại biểu Đông Dương, đã bỏ phiếu tán thành thành lập Đảng Cộng sản Pháp
và trở thành người Cộng sản đầu tiên của dân tộc Việt Nam.
-
Từ năm 1921-1930, Nguyễn Ái Quốc vừa tiếp tục hoạt động trong Đảng Cộng sản
Pháp, nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện tư tưởng cứu nước, vừa tích cực truyền
bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam. Người tập trung chuẩn bị về tổ chức và cán bộ, lập ra Hội Việt Nam cách
mạng Thanh niên (1925), tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu, Trung
Quốc, đồng thời gửi cán bộ đi học tại trường Đại học Phương Đông (Liên Xô) và
trường Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc).
Như
vậy, từ bối cảnh quốc tế, trong nước; việc tìm ra con đường cứu nước cho nhân
dân ta, dân tộc ta, tìm ra lý luận cách mạng Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc và
công tác chuẩn bị về tổ chức, cán bộ mà từ cuối năm 1929, đầu năm 1930, những
điều kiện cho sự ra đời của một Đảng vô sản ở Việt Nam đã chín muồi.
3.
Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
-
Đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn cách mạng, từ tháng 6/1929 đến tháng 1/1930
ở Việt Nam lần lượt xuất hiện 3 tổ chức cộng sản là Đông Dương Cộng sản
Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên Đoàn. Tuy
nhiên ở một nước có tới ba tổ chức cộng sản nên không tránh khỏi sự phân tán về
lực lượng và tổ chức, khó thống nhất về tư tưởng và hành động. Yêu cầu thực
tiễn cách mạng Việt Nam cần phải thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất để lãnh
đạo cách mạng Việt Nam.
-
Từ ngày 6/1 đến ngày 7/2/1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp ở bán đảo Cửu Long thuộc Hồng Kông (Trung Quốc)
dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị đã nhất trí thống nhất
các tổ chức cộng sản thành lập một đảng, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội
nghị đã thông qua các văn kiện gồm: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt,
Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng và Lời kêu gọi của đồng chí
Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi đến công
nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh và tất cả đồng bào bị áp bức,
bóc lột nhân dịp thành lập Đảng. Trong đó, Chánh cương vắn tắt của Đảng và sách
lược vắn tắt của Đảng phản ánh nội dung cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý nghĩa như Đại
hội thành lập Đảng.
-
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960) đã quyết nghị lấy
ngày 3 tháng 2 dương lịch mỗi năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Tóm
lại, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là thành quả của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đó là
kết quả của sự vận động, phát triển và thống nhất phong trào cách mạng trong cả
nước; sự chuẩn bị công phu về mọi mặt của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và sự đoàn kết
nhất trí của những chiến sỹ tiên phong vì lợi ích của giai cấp, của dân tộc.
4.
Ý nghĩa lịch sử sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng
Sự
kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt vô cùng quan trọng của
lịch sử cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc, chấm dứt sự
khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước Việt Nam
đầu thế kỷ XX.
Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã mở ra thời kì mới
cho cách mạng Việt Nam - thời kì đấu tranh giành độc lập dân tộc tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ra đời, đã xác định được những nội
dung cơ bản nhất của con đường cách mạng Việt Nam; đáp ứng được những nhu cầu
bức thiết của lịch sử và trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết thống nhất các tổ
chức cộng sản, các lực lượng cách mạng và toàn thể dân tộc.
Thực
tiễn cách mạng Việt Nam và qua 91 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng Cộng
sản Việt Nam đã khẳng định: sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu
quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam đội
tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, toàn dân tộc Việt Nam,
lấy lý luận chủ nghĩa Mac-LêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho hành
động đã lãnh đạo nhân dân ta, dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác.
II.
NHỮNG MỐC SON CHÓI LỌI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRÊN CHẶNG ĐƯỜNG 91 NĂM VINH
QUANG CỦA ĐẢNG
-
Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền (1930 - 1945): Sau
khi ra đời, Đảng đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, giành chính
quyền với 3 cao trào cách mạng có ý nghĩa to lớn đưa đến thắng lợi của cuộc
Cách mạng tháng Tám năm 1945. Đó là: Cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là
phong trào XôViết - Nghệ Tĩnh; Cao trào cách mạng đòi dân sinh, dân chủ (1936 -
1939); Cao trào cách mạng giải phóng dân tộc (1939 - 1945).
Thắng
lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã phá tan sự thống trị của thực dân gần
một trăm năm và lật đổ chế độ phong kiến đè nặng lên nhân dân ta mấy mươi thế
kỉ, mở ra bước ngoặt vĩ đại của cách mạng, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ
nguyên mới: kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhân dân
ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội.
Ngày
2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc
bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Nhà nước công nông đầu
tiên ở Đông Nam châu Á.
Về
ý nghĩa lịch sử của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: “Chẳng những giai cấp lao động và Nhân dân Việt Nam ta có thể tự
hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự
hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc
địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền
toàn quốc”.
-
Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước (1945 -
1975)
Xây
dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp
và can thiệp Mỹ (1945-1954)
-
Trong những năm 1945 - 1946, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo
xây dựng và củng cố vững chắc chính quyền nhân dân, bầu cử Quốc hội nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa (6/1/1946); xây dựng và thông qua Hiến pháp dân chủ đầu
tiên (9/11/1946); chăm lo xây dựng chế độ mới, đời sống mới của nhân dân, chống
giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm; tổ chức kháng chiến chống thực dân Pháp ở
Nam Bộ và Nam Trung Bộ với sự ủng hộ và chi viện của cả nước; kiên quyết trấn
áp các thế lực phản cách mạng, bảo vệ chính quyền và thành quả Cách mạng tháng
Tám; đồng thời thực hành sách lược khôn khéo, đưa cách mạng vượt qua những thử
thách hiểm nghèo. Đảng đã chủ động chuẩn bị những điều kiện cần thiết để đối
phó với cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp trên phạm vi cả nước.
-
Tháng 12/1946, trước dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa của thực dân Pháp,
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động toàn quốc kháng chiến với quyết
tâm “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước,
không chịu làm nô lệ”. Bằng đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu
dài, dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của
bạn bè quốc tế, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta lần lượt đánh bại các kế hoạch
chiến tranh của thực dân Pháp giành thắng lợi mà đỉnh cao là chiến thắng lịch
sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc Chính
phủ Pháp phải ký kết Hiệp định Giơnevơ chấm dứt sự thống trị của thực dân Pháp
ở nước ta.
-
Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1954 -
1975)
-
Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, Đảng lãnh
đạo nhân dân ta bắt tay vào khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng, khôi phục
kinh tế - văn hóa, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
-
Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân nêu cao quyết tâm đánh Mỹ, thực hiện đường lối
chiến tranh nhân dân bằng tầm cao khoa học và nghệ thuật. Bằng đường lối lãnh
đạo đúng đắn, sáng suốt và tinh thần yêu nước, đấu tranh anh dũng kiên cường,
bất khuất của nhân dân ta, cùng với sự giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ
nghĩa và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, Đảng đã lãnh đạo nhân dân
ta lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh tàn bạo của đế quốc Mỹ, giành
nhiều thắng lợi vẻ vang mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc
30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống
nhất Tổ quốc.
-
Thời kỳ tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên cả nước, thực hiện công cuộc
đổi mới đất nước từ năm 1975 đến nay
-
Sau chiến tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đất nước ta gặp muôn
vàn khó khăn, Đảng đã lãnh đạo nhân dân vừa ra sức khôi phục kinh tế vừa tiến
hành hai cuộc chiến tranh chống xâm lược biên giới phía Bắc và Tây Nam, bảo vệ
độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; đồng thời tập trung lãnh đạo xây
dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, từng bước hình thành cơ cấu kinh tế
mới trong cả nước, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ta.
-
Qua hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, với
sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, đất nước ta đã đạt được những
thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước ta vượt qua khủng hoảng kinh
tế đã trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình; đang đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Kinh
tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng
bước hình thành, phát triển. Văn hóa - xã hội có bước phát triển, công tác xóa
đói giảm nghèo đạt được những thành tựu quan trọng, sớm đạt được nhiều chỉ tiêu
phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc, được quốc tế đánh giá cao. Diện mạo
đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi.
Chính
trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Sức mạnh về mọi mặt
của đất nước được nâng lên. Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào
chiều sâu, Việt Nam đã có quan hệ với 189 quốc gia và vùng lãnh thổ. Dân chủ xã
hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Ðại đoàn kết toàn dân tộc
được củng cố và tăng cường. Xây dựng Nhà nước pháp quyền và cả hệ thống chính
trị được đẩy mạnh.
Công
tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh đã và đang đạt được một số kết quả tích cực. Số lượng đảng viên
không ngừng gia tăng.
Từ
Đại hội lần thứ I (1935) Đảng ta có khoảng 500 đảng viên đến Đại hội lần thứ
XII (2016) Đảng ta có hơn 4,5 triệu đảng viên. Đa số cán bộ, đảng viên và Nhân
dân phấn khởi, tin tưởng vào Đảng, Nhà nước, vào công cuộc đổi mới và triển
vọng phát triển của đất nước. Nhiều đảng viên đã để lại nhiều tấm gương tốt thể
hiện tinh thần tiên phong và tính gương mẫu.
-
Những bài học kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam
Thực
tiễn phong phú của cách mạng Việt Nam trong suốt 91 năm qua, Đảng ta đã tích
luỹ và đúc rút được nhiều bài học kinh nghiệm lớn:
Một
là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội - ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại
cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên
quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững
chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Hai
là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ
hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân
dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham
nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh
của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng.
Ba
là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn
kết: Đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc
tế. Đó là truyền thống quý báu và là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng nước
ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành
công, thành công, đại thành công.
Bốn
là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Trong bất cứ hoàn cảnh
nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ, nêu cao tinh thần hợp tác quốc
tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố
truyền thống với yếu tố hiện đại.
Năm
là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân
tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng không có lợi
ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đảng phải nắm vững,
vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo
đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng
đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng
quy luật khách quan. Phải phòng và chống những nguy cơ lớn: sai lầm về đường
lối, bệnh quan liêu và sự thoái hoá, biến chất của cán bộ, đảng viên.
Kỷ niệm 91 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930-3/2/2021), toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta vô cùng tự hào vì đất nước có một Đảng Cộng sản kiên
cường, trung thành với Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lãnh đạo Nhân
dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, làm nên những kỳ tích vĩ đại
trong lịch sử dân tộc, đóng góp xứng đáng vào phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế, vì hòa bình và tiến bộ của nhân loại. Tự hào về Đảng quang vinh, về
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân Việt Nam ở
trong nước và cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài càng thấy rõ hơn trách
nhiệm của mình, nguyện đi theo Đảng, xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững
mạnh, tiếp tục lãnh đạo nhân dân ta đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế, thực hiện thắng lợi mục tiêu: Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, xây dựng một nước Việt Nam phồn vinh,
hòa bình và thịnh vượng.
Ban Văn hóa xã