Kỷ niệm 47 năm ngày Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước 30/4 và ngày Quốc tế Lao động 1/5
I. CHẶNG ĐƯỜNG LỊCH SỬ, CHIẾN
CÔNG OANH LIỆT CỦA SỰ NGHIỆP CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC, GIẢI PHÓNG HOÀN TOÀN MIỀN NAM,
THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC
1. Bối cảnh quốc tế và trong
nước
Trên thế giới, sau chiến tranh thế
giới thứ hai, đế quốc Mỹ nổi lên cầm đầu phe đế quốc, có tiềm lực rất mạnh,
hiếu chiến và âm mưu bá chủ thế giới. Mỹ từng bước khẳng định sự có mặt ở Đông
Dương và sau thất bại của Pháp ở Điện Biên Phủ, chủ nghĩa thực dân cũ sụp đổ,
Mỹ nhảy vào miền Nam Việt Nam, áp đặt chủ nghĩa thực dân kiểu mới, âm mưu chia
cắt lâu dài đất nước ta. Lúc này trên thế giới đã phân chia thành hai hệ thống
đối đầu gay gắt bằng cuộc chiến tranh lạnh và chạy đua vũ trang quyết liệt. Hệ
thống xã hội chủ nghĩa, phong trào công nhân ở các nước tư bản, phong trào giải
phóng dân tộc ở khắp nơi trên thế giới dâng cao. Việt Nam trở thành tiêu điểm
hội tụ những mâu thuẫn của thời đại. Trong nước, sau chín năm kháng chiến chống
thực dân Pháp, miền Bắc được giải phóng và bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa
xã hội, miền Nam vẫn dưới ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai. Nhiệm vụ
tranh đấu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc trở thành nhiệm vụ thiêng
liêng của toàn dân tộc
2. Những bước phát triển của
cuộc kháng chiến
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
của nhân dân ta đã trải qua gần 21 năm, là cuộc chiến tranh cứu nước dài ngày
nhất, ác liệt nhất và phức tạp nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc.
Có thể phân kỳ cuộc kháng chiến thành năm giai đoạn chiến lược, mỗi giai đoạn
có những chuyển biến về tương quan lực lượng, cục diện chiến tranh để đến giai
đoạn cuối tạo bước nhảy vọt lớn đi đến giành thắng lợi hoàn toàn
a) Giai đoạn thứ nhất từ tháng
7 năm 1954 đến hết năm 1960: Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh giữ gìn lực lượng,
chuyển dần sang thế tiến công, làm thất bại bước đầu phương thức chủ nghĩa thực
dân mới của đế quốc Mỹ
Tháng 5 năm 1954, cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp của nhân dân ta đã giành thắng lợi hoàn toàn, chấm dứt
chiến tranh ở Đông Dương. Tháng 7 năm 1954, tại Hội nghị ký kết Hiệp định
Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam được diễn ra, nhưng Mỹ là một trong
những nước dự hội nghị đã không ký tuyên bố cuối cùng của hội nghị "Thừa
nhận về nguyên tắc độc lập, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam". Mỹ
nhanh chóng xúc tiến kế hoạch xâm nhập miền Nam nước ta để thay thế thực dân
Pháp, thực chất là xâm chiếm miền Nam bằng chính sách thực dân mới. Mỹ dựng lên
chính phủ bù nhìn Ngô Đình Diệm ở miền Nam với âm mưu tiêu diệt bằng được phong
trào yêu nước và cách mạng của nhân dân ta, chia cắt lâu dài đất nước ta, biến
miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, căn cứ quân sự của Mỹ, làm bàn đạp tấn công
miền Bắc và các nước xã hội chủ nghĩa.
Ngay từ trong kháng chiến chống thực
dân Pháp, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá đúng bản chất, âm mưu xâm
lược của đế quốc Mỹ. Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (tháng 7 năm 1954) chỉ rõ
"Đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới và
hiện đang trở thành kẻ thù chính, trực tiếp của nhân dân Đông Dương". Đảng
ta luôn nhất quán tinh thần chỉ đạo tiến hành đồng thời hai chiến lược cách
mạng: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Miền
Bắc nhanh chóng tổ chức cuộc sống mới, trong ba năm (1958 - 1960), ta đã hoàn
thành về cơ bản công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, bước đầu xây dựng, phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, chuẩn bị
về quân sự cho cách mạng cả nước giai đoạn mới. Ở miền Nam, cuộc đấu tranh diễn
ra vô cùng khó khăn, ác liệt, nhưng đại bộ phận nhân dân vẫn một lòng theo
Đảng, bất khuất chống áp bức, khủng bố, bảo vệ lực lượng cách mạng.
Hội nghị Trung ương lần thứ 15
(tháng 01 năm 1959) đã xác định con đường tiến lên của cách mạng miền Nam và
chỉ rõ mục tiêu, phương pháp cách mạng miền Nam, mối quan hệ giữa hai chiến
lược cách mạng ở hai miền Nam - Bắc, giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế
giới, nhằm giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Nghị quyết số 15-NQ/TW của
Trung ương đã phản ánh đúng nhu cầu lịch sử, giải quyết kịp thời yêu cầu phát
triển của cách mạng miền Nam trong tình thế thực sự chín muồi, định hướng và
động viên nhân dân miền Nam vùng lên trong phong trào Đồng khởi (1959 - 1960),
xoay chuyển tình thế cách mạng miền Nam, đáp ứng nguyện vọng tha thiết lúc này
của cán bộ, chiến sĩ và đồng bào miền Nam cũng như cả nước.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân
có sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang cách mạng đã vùng lên khởi nghĩa giành
chính quyền ở nhiều vùng nông thôn. Lực lượng vũ trang và hệ thống chỉ huy quân
sự các cấp của ta từng bước hình thành, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam
thành lập. Cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam đã được khởi động một cách độc
đáo, khéo léo, làm thất bại một hình thức thống trị điển hình của chủ nghĩa
thực dân mới.
b) Giai đoạn hai từ năm 1961
đến giữa năm 1965: Giữ vững và phát triển thế tiến công, đánh bại chiến lược
"Chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ
Từ cuối năm 1960, Mỹ áp dụng hình
thức thống trị bằng chính quyền tay sai độc tài phát xít Ngô Đình Diệm nhưng đã
liên tiếp bị thất bại. Để đối phó với sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng miền
Nam, chiếm lại những địa bàn, vùng dân cư đã mất sau cuộc Đồng khởi của ta, đế
quốc Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược "Chiến tranh đặc biệt". Đây
là chiến lược đầu tiên trong ba loại chiến tranh nằm trong chiến lược quân sự
toàn cầu "Phản ứng linh hoạt" của đế quốc Mỹ.
Để đối phó với chiến lược
"Chiến tranh đặc biệt" của Mỹ, Đảng ta chủ trương chuyển cách mạng
giải phóng miền Nam lên giai đoạn mới. Từ đây, cuộc khởi nghĩa từng phần phát
triển lên thành cuộc chiến tranh cách mạng quy mô toàn miền. Trong những năm
1961 - 1964, nhân dân miền Nam vừa đấu tranh, vừa chú trọng xây dựng lực lượng
vũ trang cách mạng với sự chi viện đắc lực từ miền Bắc. Nhiều trung đoàn chủ
lực miền Nam được thành lập. Tích cực mở rộng căn cứ cách mạng, phát triển
chiến tranh du kích, tăng cường đánh phá các căn cứ quân sự xung yếu của địch
như sân bay, kho tàng, bến cảng, phá hệ thống ấp chiến lược do địch lập ra,
liên tiếp giành thắng lợi trên các chiến trường. Điển hình là trận Ấp Bắc
(tháng 01 năm 1963), chiến dịch Bình Giã (tháng 12 năm 1964 - tháng 01 năm
1965), Ba Gia (tháng 5 năm 1965 - tháng 7 năm 1965), Đồng Xoài (tháng 5 năm
1965 - tháng 7 năm 1965).
Sau khi dựng lên sự kiện "Vịnh
Bắc Bộ", đế quốc Mỹ mở cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân
và hải quân. Ngày 5 tháng 8 năm 1964, chúng dùng 64 lần máy bay mở cuộc tiến
công "Mũi tên xuyên" đánh ồ ạt ở các khu vực sông Gianh (Quảng Bình),
Cửa Hội (Vinh), Lạch Trường (Thanh Hóa), Bãi Cháy (Quảng Ninh). Các đơn vị hải
quân, phòng không, dân quân tự vệ đã nâng cao cảnh giác, hiệp đồng chặt chẽ,
mưu trí dũng cảm, chiến đấu ngoan cường, bắn rơi 8 máy bay. Ngày 05 tháng 8 trở
thành ngày truyền thống đánh thắng trận đầu của bộ đội Hải quân nhân dân Việt
Nam. Chiến thắng ngày 5 tháng 8 năm 1964 cổ vũ mạnh mẽ khí thế chiến đấu, củng
cố niềm tin và khẳng định ý chí quyết tâm đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại
bằng không quân và hải quân đế quốc Mỹ của nhân dân ta. Trên miền Bắc, các mặt
trận kinh tế, văn hóa, an ninh quốc phòng đều có bước phát triển mới; quân và
dân miền Bắc vừa sản xuất vừa sẵn sàng chiến đấu và chi viện cho miền Nam.
c) Giai đoạn ba từ giữa năm
1965 đến hết năm 1968: Đảng phát động toàn dân chống Mỹ, cứu nước, đánh bại chiến
lược "Chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ ở miền Nam, đánh thắng cuộc
phá hoại bằng không quân, hải quân lần thứ nhất ở miền Bắc
Thực chất của chiến lược "Chiến
tranh cục bộ" là sử dụng quân Mỹ làm lực lượng cơ động, chủ yếu để tiêu
diệt bộ đội chủ lực của ta; quân ngụy làm lực lượng chiếm đóng, bình định, kìm
kẹp nhân dân hòng đánh bại cách mạng miền Nam trong vòng 25 - 30 tháng (từ giữa
năm 1965 đến năm 1967). Chúng đưa vào miền Nam hơn nửa triệu quân Mỹ và quân
đội một số nước chư hầu. Đồng thời sử dụng không quân và hải quân mở chiến dịch
"Sấm rền", đánh phá ác liệt với mưu đồ "đưa miền Bắc trở lại
thời kỳ đồ đá", hòng ngăn chặn chi viện từ miền Bắc và quốc tế vào miền
Nam.
Trước tình hình leo thang chiến
tranh của địch và những khó khăn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, các
hội nghị Trung ương lần thứ 11 (tháng 3 năm 1965) và lần thứ 12 (tháng 12 năm
1965) trên cơ sở phân tích một cách khoa học so sánh lực lượng giữa ta và địch,
Trung ương khẳng định sự thất bại không tránh khỏi của đế quốc Mỹ và hạ quyết
tâm động viên lực lượng cả nước giữ vững chiến lược tấn công, nêu cao ý chí tự
lực, tự cường, phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, tranh thủ sự giúp đỡ của
quốc tế, kiên quyết đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước. Ngày 17 tháng 7 năm 1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời
kêu gọi lịch sử, kêu gọi toàn dân đoàn kết một lòng, quyết tâm chống Mỹ, cứu
nước.
Trước tình hình đó, các lực lượng vũ
trang cách mạng đã tăng cường xây dựng lực lượng ba thứ quân, đẩy mạnh tác
chiến của bộ đội chủ lực kết hợp với hoạt động tác chiến rộng khắp của bộ đội
địa phương và dân quân, du kích. Chiến thắng Núi Thành của bộ đội địa phương
tỉnh Quảng Nam (tháng 5 năm 1965), chiến thắng Vạn Tường (tháng 8 năm 1965),
thắng lợi của các chiến dịch Plây - me (tháng 11 năm 1965) và tiếp đó là các
chiến công vang dội đập tan hai cuộc phản công chiến lược mùa khô (1965 - 1966,
1966 - 1967) của Mỹ ở miền Nam, đẩy Mỹ vào thế tiến thoái lưỡng nan về chiến
lược.
Thực hiện chủ trương của Đảng, quân
và dân ta mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968 nhằm giáng một
đòn quyết liệt vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ. Đêm 30 rạng ngày 31 tháng 01
năm 1968 (tức đêm Mùng 1, rạng sáng Mùng 2 Tết Mậu Thân) các lực lượng vũ trang
và nhân dân miền Nam đã tiến công và nổi dậy trên toàn miền, đồng loạt tiến
công địch ở 4 thành phố, 37 thị xã, hàng trăm thị trấn, đánh vào hầu hết cơ
quan đầu não Trung ương, địa phương của Mỹ lẫn ngụy. Quần chúng nhiều vùng nông
thôn đã nổi dậy mạnh mẽ, đập tan bộ máy kìm kẹp của địch, phá vỡ hàng loạt
"Ấp chiến lược", bức rút nhiều hệ thống đồn bót, giải phóng và giành
quyền làm chủ, xây dựng chính quyền cách mạng, mở rộng và củng cố hậu phương
ta. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 của ta như "Một
đòn sét đánh" đối với bọn trùm xâm lược Mỹ, làm choáng váng cả nước Mỹ và
chấn động dư luận thế giới.
d) Giai đoạn thứ tư từ năm 1969
đến năm 1973: Phát huy sức mạnh liên minh chiến đấu Việt Nam với Lào,
Campuchia, làm thất bại một bước chiến lược "Việt Nam hóa chiến
tranh", đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân lần
thứ hai ở miền Bắc, tạo thế mạnh trong đàm phán
Thực chất của chiến lược "Việt
Nam hóa chiến tranh" là "Đổi màu da trên xác chết", "Dùng
người Việt giết người Việt", "Dùng người Đông Dương giết người Đông
Dương" bằng tiền của và vũ khí của Mỹ, do người Mỹ chỉ huy. Chính quyền
Ních-xơn vừa từng bước rút quân Mỹ, vừa ra sức củng cố và tăng cường ngụy quân,
ngụy quyền, vừa phản công và tiến công quyết liệt để chống phá ta. Chúng tập
trung hầu hết lực lượng của Mỹ - ngụy để bình định nông thôn, sử dụng phương
tiện chiến tranh hiện đại, kể cả vũ khí hóa học, chiến tranh điện tử và không
quân chiến lược để tiến hành chiến tranh hủy diệt, chiến tranh giành dân, đánh
phá các căn cứ địa cách mạng và hậu phương của ta.
Trước tình hình đó, Đảng ta nhận
định: Đông Dương đã trở thành một chiến trường thống nhất, kẻ thù chung của cả
ba nước Đông Dương lúc này là đế quốc Mỹ xâm lược. Miền Nam Việt Nam là chiến
trường chính, Campuchia là chiến trường yếu nhất của địch, Lào ngày càng có vị
trí hiểm yếu, miền Bắc Việt Nam là hậu phương chung của cả ba nước Đông Dương.
Quân và dân ta phối hợp với Lào và Campuchia, đánh địch trên khắp chiến trường
ba nước Đông Dương, đập tan cuộc hành quân "Lam Sơn 719" ở Đường 9 -
Nam Lào, đánh bại cuộc hành quân "Toàn thắng 01 năm 1971" ở
Campuchia, đánh tơi tả lực lượng của địch ở ngã ba biên giới, tiêu diệt địch
trong cuộc hành quân "Chen La II" ở Đông Bắc Campuchia, đập tan quá
trình tiến công - phản kích bằng các cuộc hành quân lớn của Mỹ, ngụy trên chiến
trường ba nước Đông Dương.
Ngày 06 tháng 4 năm 1972, Mỹ huy
động không quân và hải quân ồ ạt đánh phá miền Bắc lần thứ hai (đây còn gọi là
"Chiến dịch Lainơ Bếchcơ"), thả mìn phong tỏa các hải cảng và bờ biển
miền Bắc Việt Nam. Với tinh thần dũng cảm và cách đánh mưu trí linh hoạt, qua
bảy tháng chiến đấu quyết liệt, quân và dân miền Bắc, nòng cốt là Quân chủng
Phòng không, không quân; Quân chủng Hải quân; Binh chủng Pháo binh, đã bắn rơi
hơn 600 máy bay, trong đó có chiếc thứ 4.000 bị bắn rơi trên miền Bắc, bắn chìm
và bắn cháy gần 100 tàu chiến Mỹ.
Ngày 22 tháng 10 năm 1972,
"Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam" đã
hoàn thành, nhưng ngay ngày hôm sau, Mỹ lại tìm cách tráo trở. Khi nối lại các
cuộc họp, phía Mỹ đòi sửa lại nhiều điểm quan trọng thuộc nội dung Hiệp định,
đồng thời chúng liều lĩnh tiến hành một nấc thang chiến tranh mới cực kỳ tàn
bạo. Từ ngày 18 đến ngày 29 tháng 12 năm 1972, Ních-xơn ra lệnh mở cuộc tập
kích đường không chiến lược quy mô lớn nhất mang tên "Chiến dịch Lainơ
Bếchcơ II" vào miền Bắc. Một lần nữa, quân và dân miền Bắc đã anh dũng,
mưu trí, chiến đấu kiên cường, trừng trị thích đáng không quân Mỹ.
e) Giai đoạn thứ năm từ cuối
năm 1973 đến ngày 30 tháng 4 năm 1975: tạo thế và lực, tạo thời cơ, kiên quyết
tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân năm 1975, kết thúc thắng lợi
trọn vẹn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền
Nam, thống nhất đất nước
Sau khi ký Hiệp định Pari, mặc dù
buộc phải rút hết quân nhưng đế quốc Mỹ âm mưu dùng ngụy quân, ngụy quyền làm
công cụ thực hiện chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam, biến miền Nam
thành thuộc địa kiểu mới. Mỹ tăng cường tiền, của, vũ khí, phương tiện chiến
tranh cho quân ngụy, lấn đất giành dân, thực hiện các hoạt động ngoại giao xảo
quyệt để ngăn chặn sự phát triển của cách mạng miền Nam. Đến tháng 5 năm 1973,
xu thế chống phá Hiệp định Pari của địch ngày càng tăng. Chúng điên cuồng đánh
phá hòng xóa bỏ vùng giải phóng của ta, đẩy lùi lực lượng cách mạng.
Tháng 7 năm 1973, Hội nghị Trung
ương Đảng lần thứ 21 khẳng định con đường cách mạng miền Nam vẫn là con đường
bạo lực và đề ra các nhiệm vụ lớn cho hai miền Nam - Bắc. Nửa cuối năm 1974,
cuộc chiến tranh của quân và dân ta ở miền Nam chống chiến lược "Việt Nam
hóa chiến tranh" đã giành được thắng lợi. Nước Mỹ lâm vào khủng hoảng nội
bộ. Tháng 7 năm 1974, Đảng ta chỉ đạo Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt
Nam xây dựng kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 - 1976,
nếu thời cơ đến sẽ giải phóng miền Nam trong năm 1975.
Đầu năm 1975, trên cơ sở đánh giá,
so sánh lực lượng giữa ta và địch, nắm bắt thời cơ lịch sử, Bộ Chính trị hạ
quyết tâm chiến lược, giải phóng miền Nam, đánh bại hoàn toàn cuộc chiến tranh
thực dân mới của Mỹ bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân năm 1975. Ngày
04 tháng 3 năm 1975 bộ đội ta mở chiến dịch Tây Nguyên. Sau một số trận đánh
tạo thế và nghi binh chiến dịch, ngày 10 và 11 tháng 3 năm 1975, quân ta tiến
công bằng sức mạnh binh chủng hợp thành, giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột. Đây
là trận đánh then chốt của chiến dịch, một trận điểm đúng huyệt, tiêu diệt
nhiều lực lượng tinh nhuệ và khí tài chiến tranh của địch, làm rối loạn sự chỉ
đạo chiến lược và đảo lộn thế phòng thủ ở chiến trường Tây Nguyên, mở đầu cuộc
Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân năm 1975.
Trên cơ sở những thắng lợi có ý
nghĩa quyết định, ngày 14 tháng 4 năm 1975, Bộ Chính trị quyết định mở chiến
dịch Hồ Chí Minh nhằm giải phóng Sài Gòn - Gia Định và hoàn toàn miền Nam. Thực
hiện tư tưởng chỉ đạo "thần tốc, táo bạo, bất ngờ,
chắc thắng", các đơn vị chủ lực của quân đội ta đã thực hiện
cuộc hành quân thần tốc, tiến về giải phóng Sài Gòn:
Hướng Tây Bắc có
Quân đoàn 3 tăng cường phối hợp với lực lượng vũ trang Tây Ninh, Sài Gòn - Gia
Định;
Hướng Bắc và Đông Bắc có
Quân đoàn 1 tăng cường lực lượng đặc công, xe tăng, cao xạ;
Hướng Đông và Đông Nam có
Quân đoàn 4 và Quân đoàn 2 tăng cường pháo binh, xe tăng, cao xạ, đặc công,
biệt động;
Hướng Tây và Tây Nam có
Đoàn 232 chủ lực miền Nam và chủ lực Quân khu 8, lực lượng tương đương một quân
đoàn;
Vùng ven và nội thành Sài Gòn có các
đơn vị đặc công, pháo binh kết hợp với lực lượng chính trị của quần chúng.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, các binh
đoàn đột kích thọc sâu kết hợp với lực lượng bên trong nhanh chóng đánh chiếm
các mục tiêu trọng yếu của địch ở nội thành như: Sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng
tham mưu ngụy, Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, căn cứ Hải quân, Cảng Bạch Đằng, Đài
Phát thanh, Tổng nha cảnh sát Trung ương. Binh đoàn hỗn hợp chủ lực của Quân
đoàn 2 ta chiếm "Dinh Độc Lập" lúc 10 giờ 45 phút, bắt toàn bộ ngụy
quyền Trung ương, buộc chúng tuyên bố đầu hàng không điều kiện. Cờ giải phóng
đã tung bay trước tòa nhà chính "Dinh Độc Lập" lúc 11 giờ 30 phút,
ngày 30 tháng 4 năm 1975. Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử toàn thắng; cuộc Tổng
tiến công và nổi dậy Mùa Xuân năm 1975 thắng lợi hoàn toàn.
II. Ý NGHĨA, NGUYÊN NHÂN THẮNG
LỢI VÀ NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC
1. Ý nghĩa thắng lợi
1.1. Đối với nhân dân ta
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước:
- Đánh dấu bước ngoặt rất cơ bản,
quyết định của con đường cách mạng mà Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch
ra từ Chính cương vắn tắt 1930 - Con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
tự do, ấm no, hạnh phúc.
- Kế tục Cách mạng Tháng Tám năm
1945, phát huy thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 -
1954), là trận đánh quyết định nhất của cuộc chiến đấu 30 năm (1945 - 1975)
gian khổ, ác liệt, giành lại và giữ vững nền độc lập tự do, thống nhất Tổ quốc.
Từ đây cả dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên mới: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, đẩy lùi nghèo nàn, lạc hậu, tạo lập cuộc sống ấm no, hạnh phúc, dân chủ,
công bằng, văn minh.
- Qua cuộc chiến đấu và chiến thắng,
Đảng ta, nhân dân ta, quân đội ta, dân tộc ta và mỗi người Việt Nam được rèn
luyện cả về phẩm chất và tài năng, càng nhận thức sâu sắc hơn, đúng đắn hơn vị
trí, khả năng và sức mạnh của mình trong thời đại mới.
- Nâng vị thế chính trị của Việt Nam
trên thế giới lên một tầm cao mới và là niềm tự hào của mỗi người dân Việt Nam
trong thế kỷ XX và mai sau.
1.2. Đối với thế giới
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước của nhân dân ta:
- Là một thắng lợi tiêu biểu của lực
lượng cách mạng thế giới, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân
thế giới vì độc lập, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Đập tan cuộc phản công lớn nhất,
kể từ sau Chiến tranh Thế giới lần thứ hai của chủ nghĩa đế quốc; là trào lưu
cách mạng của thời đại, mà mũi nhọn là phong trào giải phóng dân tộc, mở đầu sự
phá sản của chủ nghĩa thực dân kiểu mới trên toàn thế giới.
- Làm sáng tỏ tính hiện thực, tính
phổ biến của xu thế phát triển của loài người tiến bộ, góp phần động viên cổ vũ
các dân tộc dũng cảm, kiên cường, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, thực hiện công cuộc giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng
con người và trực tiếp góp phần to lớn vào công cuộc giải phóng dân tộc của
nhân dân hai nước láng giềng Lào và Campuchia anh em.
- Là biểu tượng mới về sức mạnh của
cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, làm tiêu
tan huyền thoại về sức mạnh của đế quốc Mỹ.
- Nêu bật một chân lý: Trong thời
đại ngày nay, một dân tộc mà nước không rộng, người không đông, kinh tế kém
phát triển, song dân tộc ta đã đoàn kết chặt chẽ và đấu tranh kiên quyết dưới
sự lãnh đạo của một Đảng Mácxít-Lêninít, có đường lối và phương pháp cách mạng
đúng đắn, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại thì hoàn toàn
có thể đánh bại mọi thế lực xâm lược.
2. Nguyên nhân thắng lợi
- Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng
sản Việt Nam, là nhân tố quyết định hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng
Việt Nam.
- Nhân dân và các lực lượng vũ trang
nhân dân phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc, một lòng đi theo Đảng, đi
theo Bác Hồ, chiến đấu dũng cảm ngoan cường, bền bỉ, lao động quên mình vì độc
lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và vì quyền sống của con người.
- Cả nước đoàn kết, thống nhất ý chí
và hành động, trên dưới một lòng, triệu người như một, quyết tâm đánh thắng
giặc Mỹ xâm lược.
- Kết hợp sức mạnh của dân tộc với
sức mạnh của thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp đánh Mỹ và thắng Mỹ.
- Đoàn kết, liên minh chiến đấu với
nhân dân Lào và nhân dân Camphuchia.
3. Những bài học kinh nghiệm
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
- Kiên định, quyết tâm, quyết đánh,
quyết thắng đế quốc Mỹ xâm lược.
- Đường lối kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước đúng đắn, sáng tạo, độc lập, tự chủ.
- Nghệ thuật tiến hành chiến tranh
nhân dân sáng tạo.
- Tổ chức lực lượng cả nước đánh
giặc.
- Xây dựng căn cứ địa cách mạng, hậu
phương kháng chiến vững chắc, phát huy vai trò của hậu phương lớn và hậu phương
vững chắc.
- Phát huy sức mạnh đoàn kết chiến
đấu của ba dân tộc Việt Nam, Lào, Campuchia để cùng nhau đánh thắng đế quốc Mỹ
xâm lược.
- Đoàn kết quốc tế, phát huy sức
mạnh của thời đại gắn với sức mạnh dân tộc.
- Bồi dưỡng và phát huy nhân tố con
người.
Kính thưa các đồng chí cán bộ và
toàn thể nhân dân trong xã.
Cách đây 47 năm, cuộc tổng tiến
công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử
đã giành thắng lợi hoàn toàn. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã đi vào lịch sử dân
tộc như một mốc son chói lọi đưa đất nước ta bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ
nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta
từ đây tập trung sức lực và trí tuệ hàn gắn vết thương chiến tranh xây dựng
cuộc sống mới; xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Chiến thắng 30/4/1975 là thành quả
vĩ đại trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội do Đảng ta và chủ
tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo; là trang sử hào hùng, chói lọi trên con đường dựng
nước và giữ nước hàng ngàn năm lịch sử của dân tộc. Quân và dân ta đánh thắng
kẻ thù lớn mạnh và hung hãn nhất của loài người tiến bộ; kết thúc oanh liệt
cuộc chiến đấu 30 năm giành độc lập tự do, thống nhất cho Tổ quốc; chấm dứt ách
thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta; là
thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng thế giới, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ
cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì mục tiêu độc lập dân tộc, hoà bình, dân
chủ và tiến bộ xã hội; cổ vũ động viên các dân tộc đang tiến hành công cuộc
giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa thực dân kiểu mới trên toàn thế giới.
Ngày nay, trong công cuộc đổi mới
của đất nước, chúng ta mãi tự hào và biết ơn sự hy sinh to lớn của các anh
hùng, các thế hệ cha ông đã chiến đấu hy sinh anh dũng vì độc lập tự do và
thống nhất Tổ quốc. Chúng ta càng tự hào, tin tưởng vào sự lãnh đạo đúng đắn,
sáng suốt tài tình của Đảng cộng sản Việt Nam, vào tinh thần quật cường bất
khuất và trí thông minh, sáng tạo của dân tộc ta, của quân đội ta. Mỗi người
dân Việt Nam nguyện tiếp tục phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần
tự lực, tự cường, tinh thần đại đoàn kết toàn dân, quyết tâm vươn lên hoàn
thành tốt các chỉ tiêu phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội, an ninh - quốc
phòng theo chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của
Đảng đề ra.
Hòa chung không khí vui tưới phấn
khởi chào mừng 47 năm Ngày Giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước, trong những
ngày này cả nước cũng đang hân hoan chào mừng 136 năm Ngày Quốc tế Lao động
01/5 là dịp để giai cấp công nhân và nhân dân lao động cả nước ôn lại truyền
thống đấu tranh, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc đồng thời tiếp tục phát
huy vai trò của mình và có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội, theo tinh thần Nghị quyết Ðại hội XIII của Ðảng xác định: Quan
tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng
và chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ
năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động của công nhân; bảo
đảm việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện điều kiện làm việc, nhà ở, các công
trình phúc lợi phục vụ công nhân; sửa đổi, bổ sung các chính sách, pháp luật về
tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp...nhằm bảo vệ
quyền lợi, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của công nhân.
Chào mừng 47 năm Ngày Giải phóng Miền Nam thống nhất đất
nước, 136 năm Ngày Quốc tế Lao động 1/5 và 68 năm Ngày Chiến thắng Điện Biên
Phủ. Là dịp thiết thực cổ vũ, động viên toàn đảng, toàn quân và toàn dân ra sức
thi đua thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội xã
năm 2022.
Ban Văn hóa
xã